Văn hóa chính trị là gì?

Posted: September 24, 2012 in Uncategorized
Tags:

Nguyễn Hưng Quốc ( VOA ) Nếu chính trị và văn hóa có quan hệ chặt chẽ với nhau, hệ luận đầu tiên có thể được rút ra là: muốn có một sinh hoạt chính trị đàng hoàng nghiêm túc, điều cần có, trước hết, là một văn hóa chính trị thích hợp. Cũng vậy, muốn có dân chủ, điều cần có đầu tiên chính là văn hóa dân chủ. Không có văn hóa làm nền tảng, những thay đổi, cho dù lớn lao đến mấy, như thay đổi giới lãnh đạo hay thậm chí, thể chế, chỉ có tính cách tạm thời. Và hời hợt. Rồi, cuối cùng đâu cũng lại hoàn đấy. Con quái vật độc tài, một lúc nào đó, sẽ ngoi đầu dậy trở lại, nuốt chửng nền dân chủ còn phôi thai và lại hãm hại những người dân đang ngây thơ ngỡ mình đã hoặc sẽ được giải phóng khỏi mọi kiềm kẹp. …


Chính vì vậy, yếu tố văn hóa, cụ thể là văn hóa chính trị càng ngày càng được quan tâm nghiên cứu.

Nhưng văn hóa chính trị là gì?

Trước hết, xin nói một tí về văn hóa. Với mấy trăm định nghĩa khác nhau, “văn hóa” được xem là một trong những từ đa nghĩa và phức tạp nhất hiện nay. Có điều, ở Việt Nam, quan niệm về văn hóa vẫn còn rất đơn giản, ngay đối với những chuyên gia nổi tiếng nhất. Nói đến văn hóa, điều người ta thường nghĩ đến nhiều nhất là phong tục, tập quán và di tích lịch sử, bao gồm ngôn ngữ, tín ngưỡng, luật lệ, nghệ thuật, từ nghệ thuật bằng lời (ca dao, tục ngữ, cổ tích) đến nghệ thuật dựa trên nhịp điệu (dân ca và vũ điệu) và nghệ thuật không gian (chủ yếu là điêu khắc và kiến trúc) và hai khía cạnh quen thuộc khác: y phục và ẩm thực. Trong cách nghĩ như thế, người ta dễ tưởng, một, văn hóa là những gì ở bên ngoài chúng ta, hoặc chúng ta chỉ là những kẻ tiếp nhận và thực hành một cách thụ động; hai, trung tính (neutral), không gắn liền với một ý thức hệ, hay ít nhất, một quan điểm nào cả; và ba, ổn định từ đời này sang đời khác; với nó, chúng ta chỉ có một bổn phận duy nhất là bảo tồn.

Thật ra, tất cả những điều mới được đề cập chỉ là một phần của văn hóa. Đó là phần vật thể (với những lâu đài, đền miếu, tranh tượng, nhạc cụ, thực phẩm…) và một ít mang tính chất phi vật thể (với tín ngưỡng, văn học, âm nhạc, ngôn ngữ…). Đằng sau và bên dưới hai phần vật thể và phi vật thể ấy, còn một khía cạnh khác, càng ngày càng được chú ý vì nó chi phối gần như toàn bộ các mặt nổi kia: văn hóa được hiểu như một hệ thống ý nghĩa và niềm tin với những biểu tượng và những bảng giá trị đặc biệt được chia sẻ bởi các thành viên trong cộng đồng và cũng là yếu tố chính làm cho mỗi thành viên thực sự là thành viên của cộng đồng. Với hệ thống ý nghĩa và niềm tin ấy, mọi người sẽ có những tiêu chí và tiêu chuẩn giống nhau trong việc đánh giá người và vật, phân biệt cái đúng và cái sai, cái tốt và cái xấu, cái hay và cái dở, điều nên làm và điều không nên làm, v.v.

Nói cách khác, văn hóa, ở ý nghĩa căn bản nhất, là những gì nằm sâu tận trong tiềm thức và vô thức của mỗi người, định hướng cho các lựa chọn, cách suy nghĩ và cách hành xử của họ theo một chuẩn mực đã thành truyền thống mà mọi người được thụ đắc từ trong gia đình đến ngoài xã hội.

Hiểu theo nghĩa đó, văn hóa chính trị chỉ là một phần phụ của văn hóa (subculture). Nếu văn hóa là một hệ thống ý nghĩa và niềm tin, văn hóa chính trị sẽ là hệ thống ý nghĩa và niềm tin liên quan đến chính trị, nghĩa là đến quan hệ quyền lực giữa các cá nhân cũng như giữa các tập thể, từ gia đình đến giai cấp, trong một quốc gia cũng như giữa các quốc gia với nhau. Cái gọi là quyền lực ấy bao gồm nhiều yếu tố từ quyền (right) đến thẩm quyền (authority) và các thiết chế phân phối quyền lực (power), trong đó, quan trọng nhất là quyền lực đối với việc lựa chọn và quyết định những gì liên quan đến số phận của cả tập thể cũng như của từng cá nhân. Văn hóa chính trị, do đó, theo tôi, trước hết, là hệ thống niềm tin về quyền, thẩm quyền và quyền lực. Tất cả các yếu tố ấy đều gắn liền với, nếu không muốn nói là châu tuần chung quanh, một thiết chế chính: nhà nước.

Ý niệm văn hóa chính trị đã được manh nha từ thời cổ đại Hy Lạp, với Plato và Aristotle, nhưng chỉ thực sự phát triển, thành một đề tài nghiên cứu riêng và là một trong những vấn đề trung tâm của việc phân tích chính trị từ cuối thập niên 1950 đến nay. Người ta thường gắn liền sự ra đời của thuật ngữ này với các công trình nghiên cứu của Gabriel Almond, một nhà chính trị học người Mỹ, tác giả bài tiểu luận “Comparative Political Systems” đăng trên tờ Journal of Politics số 18 năm 1956 và đặc biệt, cuốn The Civic Culture xuất bản năm 1963.

Thời gian ở giữa hai tác phẩm này, nhiều học giả khác cũng tham gia vào cuộc tranh luận. Kết quả là chúng ta có vô số những cách nhìn khác nhau về ý niệm văn hóa chính trị. Với Almond, văn hóa chính trị là những định hướng – thái độ chính trị đặc biệt đối với hệ thống chính trị cũng như đối với vai trò của bản thân mình trong hệ thống ấy. Với Sidney Verba, nó là “hệ thống những niềm tin về kiểu mẫu của các thiết chế và sự tương tác chính trị.” Với Samuel Beer, hai vấn đề lớn liên quan đến văn hóa chính trị là: một, chính quyền nên được điều hành như thế nào; và hai, nó nên làm những gì. Và đằng sau hai vấn đề này là một số nguyên tắc chính liên quan đến giá trị, niềm tin và thái độ cảm xúc (emotional attitudes) của mọi thành viên trong cộng đồng. Roy Macridis tóm tắt: đó là những niềm tin được san sẻ và những luật lệ được chấp nhận một cách phổ biến. (1)

Mặc dù các định nghĩa trên sử dụng khá nhiều thuật ngữ tâm lý học, từ niềm tin đến thái độ, định hướng… các lý thuyết gia không dừng lại ở phạm vi tâm lý cá nhân: Đối tượng của văn hóa chính trị là tâm lý tập thể. Trong ý nghĩa đó, Almond và Verba xem văn hóa chính trị như một hệ thống chính trị được nội tâm hóa trong nhận thức, tình cảm và sự đánh giá của quần chúng; Ronald Inglehart xem văn hóa chính trị chính là khía cạnh chủ quan của các thiết chế xã hội; Harrison và Hungtington nhấn mạnh thêm: đó là những khía cạnh thuần túy chủ quan nằm dưới và chi phối cách suy nghĩ và hành xử của mọi người trong xã hội. Trong cuốn Political Culture, Walter A. Rosenbaum chia văn hóa chính trị thành hai cấp độ: ở cấp độ cá nhân, nó tập trung ở khía cạnh tâm lý; và ở cấp độ hệ thống, nó tập trung vào sự định hướng tập thể (collective orientation). (2)

Có thể nói, trung tâm của văn hóa chính trị là vấn đề định hướng. Có ba cấp độ định hướng chính.

Một, về phương diện nhận thức, nó bao gồm những hiểu biết về hệ thống chính trị cũng như vai trò của các thành phần tham dự vào hệ thống chính trị ấy, từ giới cầm quyền đến các đại biểu cũng như cả vai trò của truyền thông.

Hai, về phương diện cảm xúc, nó phản ánh tình cảm của dân chúng đối với hệ thống chính trị, đối với những người tham gia vào hệ thống ấy cũng như đối với các hoạt động và các giá trị mà hệ thống ấy đại diện hoặc theo đuổi.

Ba, về phương diện đánh giá, nó bộc lộ quan hệ cá nhân của con người đối với hệ thống chính trị trong nước, từ đó, định hình mức độ tham gia, dưới hình thức này hoặc hình thức khác, vào cái hệ thống ấy.

Walter A. Rosenbaum, chi tiết hơn, chia sự định hướng ấy thành ba loại:

1. Định hướng về cấu trúc chính quyền, bao gồm hai khía cạnh: đối với thể chế và đối với các thành tựu của chính phủ.
2. Định hướng về các yếu tố khác trong hệ thống chính trị (ví dụ: bản sắc chính trị, sự tin tưởng trong lãnh vực chính trị và luật lệ trong sinh hoạt chính trị).
3. Định hướng về các hoạt động chính trị của bản thân mình (bao gồm thái độ và cách thức dấn thân cũng như ý thức về tính hiệu quả của sự dấn thân ấy) (3)

Cũng giống như văn hóa nói chung, ở tất cả các khía cạnh nêu trên, văn hóa chính trị đều có tính chất tập thể, đều được thụ đắc qua hệ thống giáo dục và tuyên truyền, và đều chịu ảnh hưởng của truyền thống. Dĩ nhiên văn hóa chính trị không phân bố đều đặn cho mọi người: mỗi cá nhân, bên cạnh những điểm chung, vẫn có thể khác biệt ở mức độ. Nhưng văn hóa chính trị vẫn là những gì, thứ nhất, chi phối cách suy nghĩ và những lựa chọn cũng như quyết định của mỗi người khi đối diện với các tình huống chính trị nào đó; và thứ hai, có thể nhìn thấy trong đời sống hàng ngày, ở các sinh hoạt chính trị bình thường hàng ngày.

Tìm hiểu về văn hóa chính trị Việt Nam hẳn chúng ta sẽ phát hiện ra lắm điều thú vị. Cho đến nay, đó vẫn còn là một đề tài mới. Một vùng đất còn hoang.

***
Chú thích:
(1). Xem luận án tiến sĩ của Kwang- Il Yoon, Political Culture of Individualism and Collectivism đệ trình tại The University of Michigan năm 2010. Đọc trên deepblue.lib.umich.edu/bitstream/2027.42/75827/1/kiyoon_1.pdf
(2). Walter A. Rosenbaum (1975), Political Culture), London: Nelson, tr. 4._(3). Như trên, tr. 6-7.

Xã hội dân sự
Nguyễn Hưng Quốc ( VOA ) Trong cuộc đấu tranh chống “diễn tiến hòa bình” ở Việt Nam, chính quyền, trước, tập trung vào một đối tượng chính: phong trào đòi đa nguyên và đa đảng; sau, tập trung vào các cuộc biểu tình chống các âm mưu bành trướng và các hành động uy hiếp ngang ngược của Trung Quốc; và gần đây, tập trung vào hai đối tượng: tự do ngôn luận và xã hội dân sự.

Việc phân biệt trước, sau và gần đây như trên chỉ căn cứ trên mặt nổi, mặt tuyên truyền. Trên thực tế, các dấu mốc thời gian không rõ rệt như thế. Và các đối tượng cũng không có ranh giới rõ ràng như thế. Ví dụ, các cuộc biểu tình chống Trung Quốc trước đây không phải chỉ diễn ra trên các đường phố ở Sài Gòn và Hà Nội, đặc biệt Hà Nội, mà còn diễn ra trên các blog, bởi vậy, việc trấn áp của chính quyền không phải chỉ nhắm vào những người xuống đường cầm cờ và hô khẩu hiệu mà còn nhắm cả đến những blogger, những người, trên blog của mình, tường thuật các cuộc biểu tình ấy cũng như lên tiếng đả kích Trung Quốc và phê phán thái độ lập lờ, nhu nhược của đảng và nhà nước Việt Nam. Việc bắt bớ, và sắp tới, xét xử các blogger như Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Phan Thanh Hải và Tạ Phong Tần cho thấy điều đó. Tuy nhiên, trước, người ta chỉ trấn áp một cách lặng lẽ hoặc ngụy trang dưới nhiều chiêu bài khác nhau. Bây giờ, người ta mở hẳn ra một “mặt trận” trên báo chí để xuyên tạc và công kích, nhắm vào hai đối tượng chính: các blog đòi hỏi tự do ngôn luận cũng như chống tham nhũng, và ý niệm về xã hội dân sự.

Về cuộc tranh đấu chống các blog, trước, người ta sử dụng đám tin tặc; sau, xem chừng tin tặc bó tay trước sự tồn tại dai dẳng, hơn nữa, phát triển mạnh mẽ của nhiều blog độc lập, cho nên đích thân Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phải lao vào trận với chỉ thị cấm cán bộ, đảng viên và dân chúng đọc các blog được gọi là “phản động” hay “thù nghịch”. Không phải chỉ nói chung chung, Nguyễn Tấn Dũng còn nêu đích danh ba blog: Quan làm báo, Dân làm báo và Biển đông. Tội danh được nêu là: các blog này “đã đăng tải thông tin vu khống, bịa đặt, xuyên tạc, không đúng sự thật nhằm bôi đen bộ máy lãnh đạo của đất nước, kích động chống Đảng và Nhà nước ta, gây hoài nghi và tạo nên những dư luận xấu trong xã hội. Đây là thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch.

Bên cạnh đó, bộ máy tuyên truyền của Việt Nam còn tập trung vào một đối tượng khác: ý niệm “xã hội dân sự” (civil society) mà họ cho là một âm mưu “diễn biến hòa bình” của các “thế lực thù nghịch” ở phương Tây cộng với các tổ chức “phản động ở nước ngoài”. Theo họ, âm mưu này vốn đã đạt được một số thành công vang dội trong việc làm lật đổ chế độ cộng sản tại Đông Âu cũng như nhiều chế độ độc tài tại Trung Đông và Bắc Phi; bây giờ, đang được vận động để du nhập vào Việt Nam nhằm “lật độ chế độ xã hội chủ nghĩa bằng biện pháp ‘bất bạo động’, ‘phi vũ trang’.”

Xã hội dân sự là cái gì mà có sức mạnh đáng sợ đến vậy?

Thật ra, xã hội dân sự chỉ là một khái niệm khá mơ hồ, bao gồm những tổ chức phi chính trị và phi lợi nhuận, dựa trên nguyên tắc tự nguyện của những người có những lợi ích chung, tin tưởng vào một bảng giá trị chung, và theo đuổi những lý tưởng chung. Nó thường hiện hình dưới nhiều hình thức: các hội từ thiện, các nhóm cộng đồng, các hội đoàn dựa trên phái tính hoặc tuổi tác hoặc nghề nghiệp (như Hội phụ nữ, Hội cao niên, Hội trí thức, Hội doanh nhân, Hướng đạo…), dựa trên tín ngưỡng (Hội Phật tử, Đoàn thiếu nhi Thánh thể…), hoặc các tổ chức phi chính phủ (non-governmental organisation, thường được gọi tắt là NGO), v.v. Nói chung, nó rất đa dạng. Đặc điểm chung của các tổ chức này, như đã nói, là tự nguyện. Có thể nêu thêm một đặc điểm khác: tính chất tự trị. Đặc điểm thứ hai này cho thấy sự khác biệt giữa các tổ chức thuộc xã hội dân sự với các tổ chức cũng được gọi là dân sự ở Việt Nam hiện nay, như Mặt trận Tổ Quốc, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh… Tất cả những tổ chức này, như trong các bản nội quy ghi rõ, đều là những “lực lượng ngoại vi” của đảng: Chúng được đảng lãnh đạo và đều hoạt động theo các tôn chỉ do đảng đề ra. Chúng hoàn toàn không có tính chất độc lập. Mang tiếng là dân sự, nhưng thực chất chúng chỉ là các tổ chức chính trị hoặc bán-chính trị.

Ở Tây phương, xã hội dân sự là một hiện tượng hợp pháp và phổ biến. Hầu như ai cũng có thể thành lập và hoạt động. Ngay với các cộng đồng tị nạn và di dân, các chính phủ cũng khuyến khích họ thành lập các hội đoàn riêng để sinh hoạt và hỗ trợ nhau, từ đó, chúng ta thấy nhan nhản khắp nơi, hầu như bất cứ nơi nào có người Việt định cư, cũng đều có những tổ chức như “Hội người Việt” hoặc “Cộng đồng người Việt” từ cấp thành phố đến cấp tiểu bang và liên bang. Ngoài ra, còn có các Hội phụ nữ, Hội cao niên cũng như các hội ái hữu được hình thành trên nhiều tiêu chí khác nhau, từ địa phương họ sinh ra và lớn lên ở Việt Nam (kiểu: Hội ái hữu Quảng Đà, Hội người Huế…) đến các binh chủng cũ trước năm 1975 (Hội ái hữu không quân / hải quân)… Ở một số nơi, chính phủ còn tài trợ cho các hội đoàn ấy hoạt động.

Ở Tây phương, chính phủ không sợ xã hội dân sự, dù là xã hội dân sự của các cộng đồng thiểu số. Lý do, thứ nhất, về phương diện lý tưởng, có sự tương hợp giữa xã hội dân sự và dân chủ: tự bản chất, dân chủ khuyến khích các sinh hoạt độc lập và tự trị của quần chúng; thứ hai, về phương diện lịch sử, cũng có sự tương hợp giữa xã hội dân sự và chủ nghĩa tư bản: cả hai ra đời hầu như cùng lúc, như là kết quả của xu hướng thương mại hóa và chuyên nghiệp hóa cũng như xu hướng tách biệt giữa thần quyền và thế quyền; thứ ba, về phương diện ý nghĩa, xã hội dân sự không phải chỉ có tác dụng đến đời sống chính trị mà còn có nhiều lợi ích cả về xã hội lẫn về văn hóa: nó cần thiết, hơn nữa, nó không thể không có.

Không thể không có vì đời sống con người rất đa dạng, không phải chỉ giới hạn trong các quan hệ huyết thống, lợi nhuận hay quyền lực. Ba quan hệ ấy dẫn đến sự tồn tại của ba thực thể quan trọng: gia đình, thị trường và nhà nước. Con người cần một kích thước khác nữa: xã hội. Với đồng loại. Với đồng bào. Hoặc hạn chế hơn, với bạn bè cùng sở thích hay chí hướng.

Ngày xưa, ở Việt Nam cũng đã từng tồn tại nhiều hình thức của xã hội dân sự, ví dụ, làng xã hay làng nghề hoặc một số sinh hoạt theo nhóm của giới văn nhân tài tử (dưới tên gọi như thi đàn hoặc thi xã). Sau này, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, hoặc người ta cấm đoán hay xóa bỏ các tổ chức ấy hoặc người ta chính trị hóa chúng, biến chúng thành một tổ chức chính trị do họ lãnh đạo và quản lý (các nhà xã hội học thường gọi là: state-led civil society). Xã hội dân sự, ngay dưới hình thức sơ khai nhất của nó (được giới chuyên môn gọi là các tổ chức tự động, auto-organisations), biến mất, và cùng với nó, ý niệm về xã hội cũng biến mất, hoặc ít nhất, lệch lạc.

Hậu quả của việc biến mất hoặc giảm thiểu của xã hội dân sự rất trầm trọng. Nó làm cho kích thước đời sống mỗi người bị nghèo chật hẳn đi. Ngoài gia đình, người ta chỉ biết đến chuyện làm ăn buôn bán hay tranh giành quyền lực. Sự hiện hữu của người-khác, hay nói theo ngôn ngữ triết học, “tha nhân”, bị hư vô hóa. Cái gọi là nạn “vô cảm” phổ biến ở Việt Nam cũng như ở hầu hết các nước cộng sản hiện nay, kể cả, nếu không muốn nói, nhất là Trung Quốc, theo tôi, xuất phát từ hiện tượng ấy: sự biến mất của xã hội dân sự. Người ta xem những người không thuộc gia đình mình và tổ chức của mình đều là những kẻ xa lạ. Sự vô cảm ấy không những biến người ta thành những kẻ ích kỷ mà còn, đến lúc nào đó, làm mất cả lòng yêu nước, bởi nước không phải chỉ là một cơ chế, gắn liền với nhà nước, mà còn là một xã hội, với những con người cụ thể, ngoài gia tộc của mình.

Ngày xưa, người ta có thể không cần lắm sự hiện hữu của xã hội dân sự bởi vì tự bản chất, xã hội ngày xưa là một xã hội ít nhiều có tính chất dân sự: thương mại chưa đến độ thống trị mọi khía cạnh trong đời sống và quyền lực của triều đình thường cũng chỉ giới hạn trong cung đình hoặc hệ thống công quyền rải rác ở bề mặt của các địa phương. Con người sống chủ yếu là sống với nhau trong cái làng của mình, với những người làm cùng nghề với mình. Bây giờ, trong xu hướng hiện đại hóa và đô thị hóa, môi trường địa lý không còn đóng vai trò gì đáng kể trong quan hệ giữa người và người, cái gọi là tình hàng xóm hay láng giềng càng lúc càng mờ nhạt. Ngay tinh thần gia tộc, với sự phát triển của hình thức tiểu gia đình, cũng càng lúc càng lỏng lẻo. Cái gì sẽ bảo vệ quan hệ giữa người và người? Câu trả lời: xã hội dân sự.

Chủ trương ngăn cản hay chống đối sự hình thành của xã hội dân sự ở Việt Nam, do đó, là một việc làm nguy hiểm.

Chính phủ Việt Nam chỉ nghĩ đến cái lợi của họ mà không nghĩ đến cái lợi cho cả dân tộc sau này.

Comments
  1. ramthangtamh says:

    Thế thì… Mới thế!!!:irked:

Leave a comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.